Chào bạn!
Ung thư nội mạc tử cung, một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Mỹ, bắt đầu trong tế bào nội mạc tử cung, niêm mạc tử cung, tử cung rỗng hình quả lê – cơ quan vùng chậu, nơi bào thai phát triển xảy ra. Ung thư nội mạc tử cung đôi khi được gọi là ung thư tử cung, nhưng cũng có những tế bào khác trong tử cung có thể trở thành ung thư, chẳng hạn như cơ hoặc các tế bào myometrial. Những hình thức loại ung thư ít phổ biến được gọi là sacôm.
Ung thư nội mạc tử cung thường được phát hiện ở giai đoạn đầu bởi vì nó thường xuyên tạo ra chảy máu âm đạo giữa chu kỳ kinh nguyệt hoặc sau khi mãn kinh. Nếu ung thư nội mạc tử cung được phát hiện sớm, loại bỏ tử cung bằng phẫu thuật thường loại bỏ tất cả khối ung thư.
Ung thư nội mạc tử cung xuất hiện khi có các tế bào đột biến và phát triển ngoài tầm kiểm soát trong tử cung. Các tế bào tiếp tục phát triển và phân chia ngay cả khi không cần thiết và có thể xâm nhập, phá hủy các mô lân cận, thậm chí có khả năng di chuyển đến các bộ phận khác của cơ thể và bắt đầu phát triển ở đó.
Cho tới ngày nay, các nhà khoa học chưa giải thích được vì sao các tế bào khỏe mạnh đột nhiên phát triển đột biến thành ung thư. Tuy nhiên, trong ung thư nội mạc tử cung các nhà khoa học tin rằng mức estrogen đóng vai trò trong sự phát triển của ung thư nội mạc tử cung. Các yếu tố có thể làm tăng mức hormone này và các yếu tố nguy cơ khác của bệnh đã được xác định và tiếp tục xuất hiện. Ngoài ra, nghiên cứu liên tục được dành cho nghiên cứu thay đổi trong các gen nào đó có thể gây ra các tế bào trong nội mạc tử cung để trở thành ung thư.
Khi được chẩn đoán là ung thư nội mạc tử cung, người bệnh thường lo sợ, mất bình tĩnh và bối rối, bên cạnh đó kế hoạch điều trị lại phức tạp, vì vậy khi trao đổi với bác sỹ về kế hoạch điều trị nên có phương tiện để ghi lại những ý kiến của bác sỹ hoặc có người thân đi cùng.
Để điều trị ung thư nội mạc tử cung, các bác sỹ thường áp dụng các phương pháp phẫu thuật, xạ trị và hóa trị. Đại đa số bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung đều phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm nên hầu hết phẫu thuật là phương pháp thường được sử dụng trong điều trị bệnh.
\nGiai đoạn 1 : cắt tử cung toàn phần, lấy hạch dọc tĩnh mạch, nếu hạch xâm nhiễm thì xạ trị ngoài. U biệt hoá cao thì bổ sung nội tiết.
Giai đoạn 2 : tia xạ tại chỗ và phẫu thuật cắt tử cung toàn phần rộng rãi và lấy hạch. Sau 4-6 tuần thì tia xạ ngoài nếu hạch xâm nhiễm.
Giai đoạn 3 : Nếu mổ được thì cắt bỏ và xạ trị, nếu không thì xạ trị bằng kim radium đặt tại chỗ và hormon liệu pháp kết hợp (thực hiện tại chuyên khoa ung thư).
Giai đoạn 4 : Điều trị triệu chứng bằng progestatif. Trong trường hợp tái phát ở mỏm cắt âm đạo thì đặt kim Radium.
\nPhẫu thuật ung thư nội mạc tử cung
Phẫu thuật điều trị ung thư nội mạc tử cung gồm cắt bỏ tử cung, cắt bỏ buồng trứng và vòi trứng hai bên, lấy đi các hạch bạch huyết để kiểm tra xem ung thư đã lan đến hạch hay chưa. Nếu ung thư chỉ giới hạn ở lớp nội mạc tử cung, bệnh nhân sẽ không cần điều trị gì thêm.
Bệnh nhân thường đau và cảm giác rất mệt mỏi sau phẫu thuật. Thời gian để phục hồi thường kéo dài 4-8 tuần sau phẫu thuật. Một số bệnh nhân sẽ xuất hiện buồn nôn, nôn hay các biểu hiện về tiêu hoá khác. Cần tuân thủ chế độ ăn chuyển dần từ lỏng sang đặc.
Do mổ cắt tử cung và buồng trứng 2 bên nên bệnh nhân sẽ không còn kinh nguyệt, không có khả năng có thai và có các biểu hiện của mãn kinh. Tuy nhiên không nên dùng nội tiết tố thay thế để điều chỉnh các triệu chứng của mãn kinh vì như trên đã nêu, đây là 1 yếu tố nguy cơ.
Xạ trị là phương pháp sử dụng các chùm tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Giống như phẫu thuật, đây là phương pháp điều trị tại chỗ nghĩa là chỉ tác động đến những tế bào ở trong vùng điều trị. Có 2 hình thức xạ trị:
Xạ ngoài : sử dụng một máy phát tia lớn ở ngoài cơ thể để chiếu tia vào vùng điều trị. Bệnh nhân thường được điều trị 5 ngày mỗi tuần trong vòng vài tháng. Có thể bệnh nhân chỉ cần điều trị ngoại trú mà không phải nằm viện.
Xạ trong : sử dụng một ống nhỏ chứa chất phóng xạ đưa vào âm đạo và lưu ở đó trong vài ngày. Bệnh nhân sẽ phải nằm viện và hạn chế sự thăm viếng trong những ngày điều trị.
Các tác dụng phụ tuỳ thuộc vào liều xạ và vùng được chiếu xạ. Các biểu hiện thông thường là đỏ da, khô da, rụng lông vùng chiếu xạ, chán ăn và mệt mỏi. Một số bệnh nhân có biểu hiện khô, kích thích nóng rát âm đạo. Tia xạ cũng có thể gây nên một số rối loạn về đại, tiểu tiện.
Hóa trị là sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Thông thường, các loại thuốc hóa trị được sử dụng kết hợp để tăng hiệu quả của họ. Nói chung, phụ nữ có giai đoạn III hoặc ung thư nội mạc tử cung giai đoạn IV sẽ được hóa trị như là một phần của phác đồ điều trị của họ. Có thể nhận được thuốc hóa trị bằng thuốc (uống) hoặc thông qua các tĩnh mạch. Các thuốc này nhập vào máu và sau đó đi qua cơ thể, làm chết tế bào ung thư bên ngoài tử cung.
Nhằm mục đích nhắm vào khối u trong cơ thể bệnh nhân và tiến hành nút động mạch chủ cung cấp máu, khiến khối u mất máu và bị “bỏ đói”, trong cùng thời gian nút mạch, thuốc kháng u sẽ được tiêm vào khối u, thuốc nút mạch và hóa chất tương trợ với nhau, không những chặn đứng nguồn cung cấp máu, mà còn phát huy tác dụng của hóa chất cục bộ, mà không gây phản ứng phụ của hóa chất toàn thân. Tùy vào tình trạng của bệnh nhân để tiếp tụ c cấy hạt phóng xạ, đưa ra phác đồ về số lượng, vị trí cấy hạt phóng xạ, thông qua sự hướng dẫn của máy CT, các hạt phóng xạ được đưa vào trong khối u, các hạt phóng xạ sẽ liên tục phát ra tia γ, xạ ngay trong khối u, không gây tổn thương các mô bình thường.
Trong thời gian điều trị, còn có thể áp dụng thêm điều trị đông y, giúp nâng cao hệ miễn dịch, tăng cường thể chất, giúp hiệu quả điều trị được nâng cao hơn.
Điều trị nội tiết là phương pháp dùng các thuốc để ngăn chặn các tế bào ung thư tiếp xúc với các nội tiết tố mà chúng cần có để phát triển. Trước khi điều trị nội tiết, bác sỹ sẽ yêu cầu làm xét nghiệm về nội tiết để biết được bệnh nhân có khả năng đáp ứng với phương pháp điều trị này hay không. Đây là phương pháp điều trị toàn thân. Thuốc thường dùng có tên là progesteron, dạng viên. Điều trị nội tiết có thể được chỉ định cho những bệnh nhân không mổ được, đã di căn hoặc tái phát sau điều trị.
Theo dõi sau điều trị là rất quan trọng trong điêù trị ung thư nói chung và ung thư nội mạc tử cung nói riêng. Nó giúp cho việc phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề mới phát sinh. Mỗi lần đến kiểm tra, bệnh nhân sẽ được khám lâm sàng bao gồm cả thăm khám khung chậu, chụp phim X quang và làm các xét nghiệm khác.
Chúc bạn sức khỏe