Bệnh Nam Khoa

Người nhà tôi trên da khắp cơ thể có những nốt màu hồng đặc biệt là 2 cánh tay nổi rất nhiều. Những nốt này thường hay bong những vẩy trắng nhưng đặc điểm là không ngứa và sau đó không dùng thuốc gì thì tự mất, tuy nhiên thường xuyên tái phát. Tôi thấy người nhà vẫn khỏe mạnh nhưng nhìn thì thấy hơi mất thẩm mỹ tôi không biết tình trạng da như vậy là bị bệnh gì?

Thu Hằng

(2015/04/09 18:47)

Chào em!
Triệu chứng mô tả của em có thể em bị vẩy phấn hồng hoặc vẩy nến\nVẢY PHẤN HỒNG Pityriasis Rosea de Gilbert\nLà một bệnh giới hạn ở da, với thương tổn lâm sàng là mảng da đỏ hồng có vảy phấn, kèm theo ngứa. Vẩy phấn hồng là bệnh có ngoại ban cấp tính, hay gặp ở trẻ em và người trẻ, ban đầu tổn thương da tiên phát là đám mảng hình huy hiệu thường ở thân mình, sau 1-2 tuần nổi nhiều đám tổn thương thứ phát lan tràn, diễn biến trong khoảng 6 tuần nhiều khi bệnh thuyên giảm ngẫu nhiên, còn toàn trạng ít ảnh hưởng. \nCho đến nay vẫn chưa xác định rõ, chắc chắn. Có nhiều giả thuyết của phần nhiều tác giả cho rằng bệnh có liên quan đến bệnh toàn thân như Lao, Nấm mốc, Côn trùng, nhiễm khuẩn, nhiễm virus, tự nhiễm độc. Người ta cho rằng có vai trò của sự nhiễm một vài chủng herpes virus như HHV6, HHV7. Tuy nhiên, người ta cũng không cho rằng bệnh có thể truyền nhiễm.\nBệnh nhân được khuyến cáo nên đi khám bệnh khi có các triệu chứng đặc biệt sau:\n- Xuất hiện mảng hồng ban rộng lớn, tróc vẩy ở vùng ngực, lưng, bụng.\n- Có nhiều hồng ban xuất hiện tiếp theo khắp ngực, lưng, bụng hay có thể có thêm ở mặt, tứ chi.\nNếu bệnh nhân đã được chẩn đoán là bị vẩy phấn hồng mà sang thương vẫn không khỏi sau 3 tháng, cần phải đến tái khám bác sĩ chuyên khoa Da Liễu ngay. \nBệnh thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên, có tần suất mắc nhiều về mùa đông và mùa xuân. Về dịch tễ học và hình ảnh lâm sàng có thể nói rằng nó là bệnh truyền nhiễm, ở vùng Transvaal có một thời kỳ kéo dài từ 2- 4 năm, có một " dịch" tự nhiên bệnh nhân tăng vọt (có từ 2-4 cá thể bị bệnh ở một gia đình hoặc ở trường học) nhưng không có một báo cáo chính thức nào nói về sự lây truyền của bệnh. \nTừ 1892 Lassar quan sát thấy bệnh có liên quan đến mặc quần áo mới hoặc quần áo đã cất đi một thời gian rồi mặc lại. Sự truyền nhiễm qua quần áo hoặc qua côn trùng cư trú trong quần áo cũng chưa được chứng minh. \nCó nhiều tác giả cho rằng bệnh do một loài vi-rút nhưng chưa chứng minh được và cả nấm, vi khuẩn, xoắn khuẩn cũng như vậy. Có tác giả đã sơ bộ xác định là do vi-rút Epstein - Barr (là một loại vi-rút ADN thuộc họ Herpes virus) (thông thường thì vi-rút E-B gây bệnh tăng bạch cầu đơn nhân). Một số tác giả đã làm lây truyền được bệnh qua vảy da và qua thanh dịch của mụn nước ở tổn thương. \nTổn thương tiên phát ban đầu thường hay ở cánh, cẳng tay, vùng ngực gần nách và là đám màu hồng hình tròn hay hình oval như "hình huy hiệu ", có viền vẩy ở xung quanh ở giữa đám thấy nhạt màu có vẻ như da hơi nhăn. \n. Vị trí tổn thương chủ yếu ở nửa người phía trên. Có thể ở mặt, đầu. Tổn thương có tính chất có các "đám mẹ", "đám con ". Đám mẹ thường xuất hiện đầu tiên ở sườn ngực, hoặc vùng gần nách, vùng cánh tay. Sau 1-2 tuần xuất hiện nhiều đám con là các đám đỏ nhỏ, sẩn nề kích thước vài mm đến 1 cm, dạng ban mề đay, mầu hồng nhẹ hay vàng nghệ, có khi có vảy phủ trên. Trung tâm tổn thương có vẻ như teo lõm, da nhăn mầu nhạt hơn. Sau một thời gian tổn thương sắp xếp ở vùng ngực thành các đường song song dọc xương sườn như hình" cây Noel". \nTổn thương thông thường ở thân mình, cổ, còn thấy ở cánh tay và đôi khi bị cả ở hông đùi, cẳng chân và có khi ở mặt, đặc biệt ở trẻ em. Tổn thương ở cánh tay và cẳng chân khoảng 6- 12 %. Tổn thương ở lòng bàn tay cũng có thể có, có hình ảnh đỏ da bong vẩy có mụn nước nhỏ. Tổn thương ở bán niêm mạc là hiếm nhưng cũng phải chú ý. Tổn thương đỏ da bong vẩy hoặc điểm xuất huyết hoặc phỏng nước cũng có gặp. Có cả tổn thương ở âm đạo. \nTriệu chứng chung khác có thể quan sát thấy nhưng nhẹ, sẩn ngứa nhẹ, hoặc là có thể do điều trị không đúng. Sốt nhẹ, mệt mỏi, hạch limphô ở nách có thể sưng. \nTổn thương da thông thường biến mất sau 6 tuần nhưng có thể kéo dài hơn tới 2-3 tháng Tổn thương ở phía dưới, có thể kéo dài hơn. Có thể để lại tăng hay giảm sắc tố. Nhưng thông thường không để lại dấu vết gì \nVẩy phấn hồng điển hình thường bắt đầu bằng một đốm hồng ban rộng lớn, tróc vẩy, hơi nhô cao trên bề mặt da. Vị trí thường gặp ở ngực , bụng, lưng. – gọi là mảng hồng ban khới đầu. Sang thương vẩy phấn hồng thường xếp giống hình vẩy cá và có màu hồng. Nếu bệnh nhân có da sậm màu, sang thương có thể có màu xám, nâu sậm hay màu trắng.\nThương tổn cơ bản là một mảng thương tổn độc nhất có hình huy hiệu hay hình bầu dục, rìa màu hồng giữa nhạt màu hơn và hơi hõm. Trên mặt có vảy phấn, thương tổn có đường kính lan rộng dần từ 2 - 6cm.\n- Triệu chứng kèm theo là ngứa, đôi khi bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi. Ngoài ra không có gì đặc biệt.\n- Vị trí: Xuất hiện bất cứ nơi nào nhưng thường gặp nhất là ở ngực, lưng và chi.\nKhoảng 50% bệnh nhân bị vẩy phấn hồng cũng có các triệu chứng nhiễm trùng hô hấp trên như: nghẹt mũi, đau cổ họng, ho…trước khị mảng hồng ban khởi đầu của vẩy phấn hồng xuất hiện\n: Sau đó, trong từ vài ngày đến vài tuần, nhiều đốm hồng ban nhỏ hơn, d~ 0,5cm- 2cm, tróc vẩy, xuất hiện tiếp tục khắp ngực, lưng, bụng phân bố theo dạng hình cây thông. Sang thương có thể ngứa và hiếm gặp ở vùng mặt hay tứ chi. au khi xuất hiện thương tổn đầu tiên vài ngày đến 2 tuần thì thương tổn lan rộng khắp người. Tập trung ở thân, ít hơn ở chi không có ở mặt và da đầu: Có 2 loại lâm sàng với đặc điểm như sau: \nThương tổn không đặc trưng: Thương tổn lan rộng từ cổ đến chân với hình thái lâm sàng là những dát, mảng màu hồng, bờ nham nhở, giới hạn không rõ. Trên mặt có nhiều vảy phấn.\nThương tổn đặc trưng: Thương tổn là những dát, mảng hình tròn hay hình bầu dục kích thước 1-3cm có 2 vùng rõ rệt: Xung quanh rìa màu hồng, gờ cao, có vảy phấn nhỏ, trung tâm màu vàng nhạt, hơi lõm, da nhăn nheo. Nhiều dát nhỏ liên kết với nhau thành mảng lớn hình đa cung.\nThương tổn thường đối xứng theo trục cơ thể, có hình Oval sắp xếp dọc theo các cung xương sườn, làm nên bức tranh thương tổn có hình cây thông.\nBệnh thường kéo dài 6-8 tuần thì khỏi, bệnh khỏi để lại dấu tích da giảm sắc tố vài tuần thì trở về bình thường và không để lại sẹo ở da. Bệnh có tính miễn dịch.\nBỆNH VẨY NẾN(PSORIASIS)\nVẩy nến là một bệnh da khá thường gặp, chiếm tỷ lệ khoảng 1,5% - 2% dấn số. Chủ yếu là nổi các thương tổn da, có thể kèm với ngứa. Diển tiến rất dai dẳng, tái đi tái lại rất khó điều trị khỏi hoàn toàn, không gây các biến chứng nặng, không trực tiếp gây tử vong nhưng có thể gây biến chứng viêm, đau và biến dạng khớp xương. \nVẩy nến có thể xãy ra ở mọi tuổi, cả nam lẫn nử. Chủng tộc: tần suất bệnh thấp ở một số vùng như Nhật, Tây Ấn, Eskimo. Bệnh rất ít hay không có ở người da đỏ Bắc và Nam Mỹ. \nDịch tễ và những yếu tố liên quan đến phát sinh, phát triển bệnh:\nYếu tố di truyền:\nCó hai kiểu bệnh rõ ràng trong vẩy nến: kiểu khởi phát sớm và kiểu khởi phát muộn. Vẩy nến khởi phát sớm thường gặp ở độ tuổi 16-22. Loại này có diễn tiến bất ổn và khuynh hướng lan rộng toàn thân. Loại này có liên quan mạnh đến tính di truyền. Trái lại, vẩy nến khởi phát muộn thường gặp ở độ tuổi 57-60. Loại này thường nhẹ và khu trú. Loại này thường ít có liên quan mạnh với tính di truyền như loại khởi phát sớm.\nYếu tố ngoại sinh:\nNhiều yếu tố môi trường cũng góp phần trong sinh bệnh học của vẩy nến. Các yếu tố ngoại sinh như chấn thương, stress, bỏng nắng, phẫu thuật, thuốc và nhiễm trùng làm khởi phát bệnh ở những người có sẵn yếu tố di truyền tiềm tàng. Các yếu tố này còn làm bệnh nặng thêm hoặc tái phát nặng nề.\nSinh bệnh học miễn dịch của vẩy nến\nCăn nguyên - Bệnh sinh còn nhiều điểm chưa sáng tỏ, song hầu hết các tác giả cho vẩy nến là bệnh da di truyền, bệnh da do gen. Yếu tố di truyền (genetic factor) được thừa nhận, dưới tác động của các yếu tố khởi động (như stress, nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học vật lý...) gen gây nên bệnhvẩy nến được khởi động và sinh ra vẩy nến. Yếu tố di truyền chiếm 12, 7% (theo Huriez) và 29, 8% (theo Bolgert) di truyền trội độ xuyên 60%. Ngày nay người ta cho rằng vẩy nến là bệnh da di truyền, gen gây nên bệnh vẩy nến nằm trên nhiễm sắc thể số 6 có liên quan HLA- DR7, B13, B17, B37, BW 57, CW6...Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh (yếu tố khởi động, yếu tố môi trường) như stress, nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học, vật lý, rối loạn nội tiết, các thuốc... gen này được khởi động dẫn đến tăng sản tế bào biểu bì sinh ra vẩy nến. \n- Vẩy nến là một bệnh có cơ chế miễn , IL 1, ILµdịch, vai trò của lymphô T hoạt hoá, các cytokines, IGF1, EGF, TGF 6, IL 8, nhóm trung gian hóa học eicosanoides, prostaglandine, plasminogen mà hậu quả cuối cùng là dẫn đến tăng sinh tế bào biểu bì, tăng gián phân sinh ra vẩy nến. Người ta thấy bất thường về lymphô T (chủ yếu T4 và T8) có rất nhiều tế bào lymphô T xâm nhập vào da vùng tổn thương, tế bào TCD 8 có ở lớp biểu bì, tế bào TCD4 có ở lờp chân bì, thoát bạch cầu đa nhân trung tính từ nhú bì lên biểu bì, có vai trò của một số cytokines, IGF1 trong sự tăng trưởng biểu bì, dẫn liên quan đến sự tăngµtruyền các tín hiệu gián phân trong vẩy nến, EGF, TGF trưởng và biệt hoá các tế bào sừng (keratinocyte), có vai trò của IL1, IL6, IL8, nhóm trung gian hoá học eisaconoides, prostaglandin, plasminogen, vai trò các lymphô T hoạt hoá, tăng lymphokines, tăng sinh biểu bì hoạt hoá quá trình vẩy nến. \nVẩy nến được xem như một tình trạng tăng sinh quá mức của các keratinocyte ở thượng bì dưới sự kích thích của các lymphocyte ở bì. Cơ chế chính xác và dây chuyền tương tác giữa các keratinocyte và các tế bào miễn dịch vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng cho thấy các tế bào T hoạt hóa là những chất điều chỉnh miễn dịch chủ yếu trong sinh bệnh học của vẩy nến.\nThoạt đầu, các tế bào T hoạt hóa xâm nhập vào lớp bì ở vùng da tổn thương nhờ các phân tử kết dính tế bào và cytokine tiền viêm interleukin-8 (IL-8). Đa số tế bào T ở thượng bì là loại CD4+helper. Các tế bào T bị kích hoạt bởi các tế bào nhận diện kháng nguyên. Quá trình này sản xuất ra nhiều loại cytokine. Các tế bào T sản xuất IL-2 và interferon-y (INE-y) được gọi là tế bào Th1 và miễn dịch trung gian tế bào. Ngược lại, các tế bào T sản xuất IL-4, IL-5 và IL-10 được gọi là các thế bào Th2 và góp phần trong miễn dịch cơ thể. Các cytokime Th1 là những chất tiền viêm, còn các cytokine Th2 là những chất chống viêm. Trong vẩy nến, loại Th1 chiếm ưu thế còn Th2 ít hơn.\nTăng nồng độ IgA, IgG, IgE trong máu ở bệnh nhân vẩy nến, tiến triển, xuất hiện phức hợp miễn dịch, giảm bổ thể C 3. Bất thường về miễn dịch ở thượng bì \nDa vẩy nến xuất hiện kháng thể kháng lớp sừng, là loại IgG, yếu tố kháng nhân. \n- Căng thẳng thần kinh (stress) liên quan đến phát bệnh và vượng bệnh, bệnh nhân bị vẩy nến thuộc típ thần kinh dễ bị kích thích, hay lo lắng... \n- Yếu tố nhiễm khuẩn: vai trò các ổ nhiễm khuẩn khu trú liên quan tới quá trình phát sinh và phát triển bệnh vẩy nến (viêm mũi họng, viêm amidal,...), mà chủ yếu là vai trò của liên cầu. Vai trò của vi rut, vi rut ARN có men sao mã ngược tạo phức hợp miễn dịch bất thường còn chưa được thống nhất. \n-Chấn thương cơ học vật lý: có vai trò trong sự xuất hiện bệnh (14%). \n-Rối loạn chuyển hoá. cho là có rối loạn chuyển hoá đường, đạm. \n-Rối loạn nội tiết: bệnh thường nhẹ khi có mang nhưng sau đẻ bệnh lại tái phát hoặc nặng hơn. \n-Rối loạn chuyển hoá trên da: chỉ số sử dụng oxy của da vẩy nến tăng cao rõ rệt, có khi hơn 400% so với da bình thường, (trong viêm da cấp chỉ tăng 50- 100%), đây là một đặc điểm lớn (theo Charpy). \n-Kiểm soát tăng trưởng bất thường Hoạt động gián phân và tổng hợp ADN của lớp đáy tăng lên 8 lần, tăng sinh tế bào thượng bì, nhất là lớp đáy và lớp gai dẫn đến rối loạn quá trình tạo sừng (quá sừng và á sừng). Bình thường chu chuyển tế bào thượng bì (epidermal turnover time) là 20- 27 ngày nhưng ở da vẩy nến chu chuyển này rút ngắn chỉ còn 2- 4 ngày. \nThương tổn căn bản: Tổn thương cơ bản của vẩy nến là đỏ- vẩy. \n+ Đám mảng đỏ kích thước to nhỏ khác nhau vài milimet- một vài cetimet, có khi hàng chục centimet (các mảng lớn cố thủ ở một vài vị trí), giới hạn rõ, hơi gồ cao, nền cứng cộm, thâm nhiễm (inflammation, indurated) nhiều hoặc ít, có khi vẩy trắng choán gần hết nền đỏ chỉ còn lại viền đỏ xung quanh rộng hơn lớp vẩy. Số lượng các đám: một vài đám tới vài chục, hàng trăm đám tổn thương tuỳ từng trường hợp. \n+ Vẩy trắng phủ trên nền đám đỏ, vẩy màu trắng đục hơi bóng như màu xà cừ, như màu nến trắng. Vẩy nhiều tầng nhiều lớp, dễ bong, khi cạo vụn ra như bột trắng, như phấn, như vết nến, rơi lả tả. Vẩy tái tạo rất nhanh, bong lớp này thì lớp khác lại đùn lên. Số lượng vẩy nhiều. \nlà những dát, mảng hồng ban tróc vẫy nổi gồ cao trên bề mặt da, \n- Hồng ban không tẩm nhuận, hình tròn hay đa cung, khô láng. \n- Hồng ban có giới hạn với da lành rất rõ ràng. \n- Trên bề mặt của các mảng thương tổn có phủ vẩy màu trắng lắp lánh, nếu cạo nhẹ ta thấy tróc lên nhiều lớp bể vụn giống như cạo lên cây nến.\n- Nghiệm pháp Brocq: dùng curette, cạo nhẹ nhàng trên mặt thương tổn từ 30 đến trên 100 lần. Lần lượt ta thấy các dấu hiệu sau đây:\n• Vt đèn cầy: khi cạo lớp vẫy mỏng trên bề mặt thương tổn sẽ lần lượt tróc ra giống như cạo lên thân cây dèn cầy. \n• Dấu vẫy hành: lớp vẫy sau cùng sẽ tróc ra thành một lớp mỏng duy nhất giống như vẫy hành. \n• Giọt sương máu: khi lớp vẫy hành bong ra, trên bề mặt thương tổn có các điểm xuất huyết nhỏ đọng lại thành giọt li ti trên bề mặt da đỏ bóng láng. \n- Kích thước to nhỏ không đều, có khi nhỏ như những sẩn, những mảng tròn như đồng tiền hay rất to lan ra cả một vùng cơ thể.\n- Vị trí thường ở các nơi đặc biệt như da đầu, lưng, cùi chỏ, đầu gối,…. Đó là những vùng da thường tiếp xúc tỳ đè với các vật dụng bên ngoài. Hện tượng Koebner: khi một vùng da bị trầy thì sau đó thương tổn vẩy nến sẽ xuất hiện tại chỗ đó và có hình vệt trầy đó. \nTổn thương móng gặp ở 25% số ca, bản móng có hố lõm nhỏ (như đê khâu thợ may) hay có các đường kẻ theo chiều dọc, hoặc móng dòn vụn, dày ở bờ tự do, 10 móng cùng bị một lúc. \nVẩy nến ở da đầu thường là các đám mảng đỏ, nền cộm, bề mặt phủ vẩy trắng, thường mọc lấn ra trán thành một viền gọi là vành vẩy nến, tóc vẫn mọc xuyên qua tổn thương, mảng có khi dày cộm, vẩy dính, vùng sau tai đỏ, có vết nứt có khi xuất tiết, dễ nhầm vớiviêm da da dầu, á sừng liên cầu...\nTriệu chứng cơ năng: ngứa ít hoặc nhiều, thường ngứa nhiều ở giai đoạn đang tiến triển, triệu chứng ngứa 20- 40% số ca, một số không ngứa mà có cảm giác vướng víu, ảnh hưởng thẩm mỹ.\nNhư vậy em sẽ hiểu Bệnh Vảy phấn hồng chữa trị khỏi hòan tòan còn bệnh vảy nến chữa không khỏi chỉ tạm thời làm cho bệnh ngừng phát triển.Em nên đi khám và tùy theo tình trạng bách sĩ sẽ điều trị em nhé\nChào em!

Tìm kiếm câu hỏi khác

Các câu hỏi liên quan