Tổng quan
Bệnh
phong, còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen gây ra. Vì không có
bào tử nên vi khuẩn này không lây qua vật chủ trung gian. Khi ở ngoài, nó chỉ
tồn tại được 1 đến hai ngày. Phân loại bệnh phong dựa vào các biểu hiện lâm
sàng của bệnh. Bệnh phong được chia thành 2 thể: Thể phong u (viết tắt là thể
L); Thể phong củ (viết tắt là thể T)và 2 nhóm: Nhóm bất định (viết tắt là I);
Nhóm trung gian hay lưỡng dạng.
Triệu chứng
Da
thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm
vào da thịt. Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói
khàn.
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần
kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay
co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần.
Chẩn đoán
Hỏi
bệnh sử và khám thực thể. Bệnh thường có các triệu chứng rất đặc trưng. Xét
nghiệm tìm trực khuẩn Hansen ở dịch mũi, ở da có thể được thực hiện. Sinh
thiết da là cần thiết cho chẩn đoán. Các xét nghiệm và kiểm tra khác bao gồm:
thử nhiệm phát hiện các rối loạn cảm giác (dùng kim châm thử cảm giác đau,
dùng nước nóng lạnh thử cảm giác); Thử nghiệm histamine dùng để phát hiện tổn
thương dây thần kinh trung bì; Thử nghiệm mồ hôi dùng để phát hiện chứng mất
mồ hôi ở các tổn thương phong.
Điều trị
Điều
trị bệnh phong là làm cho bệnh nhân hết mọi triệu chứng, sạch hết trực khuẩn
và khỏi bệnh, không bị tàn phế, trở lại cuộc sống lao động, sinh hoạt bình
thường; bảo vệ xã hội và cộng đồng khỏi nguy cơ lây lan. 4 loại thuốc được sử
dụng là: Sulfone gốc, tức diamino diphenyl sulfone (DDS hay dapsone);
Rifampicine (rimactan, rifadine); Clofazimine; Thioamide gồm ethionamide và
prothionamide.