Thừa cân béo phì (bệnh béo phì) đang là đại dịch toàn cầu với mức độ tăng nhanh đáng kể hàng năm ở cả người lớn và trẻ em. Tại Việt Nam, đi đôi với tỷ lệ suy dinh dưỡng còn khá cao thì tỷ lệ béo phì ở trẻ em cũng tăng một cách nhanh chóng. Đây là điều rất đáng lo ngại vì trẻ béo phì sẽ có nguy cơ trở thành người lớn béo phì với một tương lai bệnh tật đang chờ đón. Phòng và điều trị thừa cân béo phì ở trẻ em là rất cần thiết và cấp bách.
Như thế nào được coi là béo phì ở trẻ em?
Thừa cân là hiện tượng cân nặng cao hơn mức cân nặng nên có tương ứng với chiều cao. Béo phì là sự tích tụ bất thường và quá mức khối mỡ tại mô mỡ và các tổ chức khác ảnh hưởng tới sức khỏe. Đánh giá béo phì ở trẻ em trên 2 tuổi sớm và đơn giản nhất là thông qua chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi.
Để xác định tình trạng phát triển của con từ 2 đến dưới 20 tuổi theo công thức tính chỉ số khối cơ thể BMI, cần có các thông tin về giới tính, tuổi, chiều cao (mét) và trọng lượng (kg). Sử dụng công thức để tính chỉ số BMI
Sau đó tra bảng BMI hoặc biểu đồ phân loại tình trạng dinh dưỡng theo BMI dựa vào tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới dưới đây:
Nguyên nhân dẫn tới béo phì ở trẻ em
Loại trừ nguyên nhân bệnh tật (chiếm 10%) thì nguyên nhân chính của thừa cân béo phì là năng lượng ăn vào nhiều hơn năng lượng tiêu hao.
Béo phì ở trẻ em có thể là do di truyền hoặc môi trường. Có hơn 50% trường hợp béo phì ở trẻ em là do yếu tố di truyền và môi trường gia đình. Kết quả của một cuộc nghiên cứu cũng cho thấy BMI di truyền qua các thế hệ, có 20% từ mẹ và 20% từ bố.
Môi trường có nhiều thức ăn năng lượng cao như nhiều chất béo, chất ngọt, ăn nhanh, ăn nhiều và ít hoạt động thể lực như không gian chật hẹp, xem tivi nhiều, vi tính, nhiều công nghệ cao thì dễ béo phì hơn.
Béo phì ở trẻ em - Nguy cơ mắc những bệnh khác sau này
Những trường hợp béo phì ở trẻ em có nguy cơ các bệnh giống như người lớn nhưng nặng hơn vì thời gian bệnh kéo dài và ảnh hưởng tới nội tiết, tinh thần.
Ảnh hưởng tâm lý xã hội
Trẻ bị béo phì lúc nhỏ thường kéo dài cho đến hết thời gian thiếu niên, có chức năng tâm lý xã hội kém, giảm thành công trong học tập và thường không khỏe mạnh.
Các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch
Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và kháng insulin thường thấy ở trẻ em béo phì và rối loạn lipid máu xuất hiện liên quan tới tăng tích lũy mỡ trong ổ bụng. Những rối loạn lipid máu, huyết áp và insulin máu ở trẻ em sẽ kéo dài đến thời kỳ thanh niên.
Biến chứng gan
Các biến chứng gan ở trẻ em béo phì đã được đưa ghi nhận, đặc biệt đặc tính nhiễm mỡ gan và triệu chứng tăng men gan (transaminase huyết thanh). Các bất thường men gan cũng có thể liên quan với bệnh sỏi mật, nhưng bệnh này thường hiếm gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên.
Các biến chứng về giải phẫu, xương khớp
Béo phì ở trẻ em có thể bị các biến chứng về mặt giải phẫu. Nghiêm trọng là bệnh Blount (một dị dạng xương chày do phát triển quá mạnh), dễ bị bong gân mắt cá chân.
Các biến chứng khác: Nghẽn thở khi ngủ và bệnh giả u não. Nghẽn thở khi ngủ có thể gây chứng thở quá chậm và thậm chí ở những trường hợp nặng có thể gây tử vong. Bệnh giả u não là một bệnh hiếm gặp liên quan đến tăng áp suất trong sọ não, đòi hỏi cần phải đi khám ngay.
Điều trị béo phì ở trẻ em
Nguyên tắc chung là giảm năng lượng ăn vào và tăng năng lượng tiêu hao. Tuy nhiên trẻ em là một cơ thể đang phát triển nên việc điều trị phải hết sức chuyên nghiệp để không thiếu chất dinh dưỡng ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất và trí tuệ của trẻ.
Mục tiêu điều trị béo phì của trẻ không phải chỉ là giảm cân. Trái lại nếu giảm cân không đúng sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ. Tùy theo tình trạng sức khỏe, bệnh tật của trẻ mà có những mục tiêu điều trị khác nhau. Thứ tự ưu tiên như sau:
- Mục tiêu quan trọng nhất là thay đổi hành vi về ăn uống và tăng cường lối sống năng động.
- Mục tiêu tiếp là điều trị những biến chứng (nếu có).
- Mục tiêu sau cùng mới là giảm cân. Tốc độ giảm cân thích hợp là khoảng 500 g mỗi tháng. Tùy từng trường hợp sẽ có những mức độ và mục tiêu giảm số lượng cân nặng khác nhau.